Chi tiết - Sở Lao động - Thương Binh và Xã Hội

Thông tin tiện ích
Lịch vạn niên
 

Đang truy cập: 1

Hôm nay: 110

Tổng lượt truy cập: 677.080

Học nghề và việc làm cho người khuyết tật

Pháp luật về học nghề và giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật là những quy định pháp lý được xây dựng nhằm loại bỏ những bất công mà người khuyết tật đang phải gánh chịu, xóa bỏ các cơ chế khiến người khuyết tật bị tách biệt ra ngoài xã hội, đồng thời tăng cường cơ hội việc làm bình đẳng cho họ trong thị trường lao động. Nội dung pháp luật về học nghề và giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật bao gồm một số quy định cơ bản sau:

1. Quy định về chính sách học nghề và việc làm cho người khuyết tật

Luật Người khuyết tật năm 2010 và Nghị định số 28/2012/NĐ - CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật đã có những quy định chi tiết về dạy nghề và việc làm đối với người khuyết tật. Theo đó, Nhà nước đảm bảo, tạo điều kiện tối đa cho người khuyết tật được lựa chọn, tư vấn và học nghề, làm việc theo khả năng, sức khỏe của mình; cơ sở dạy nghề, tổ chức dạy nghề phải đảm bảo điều kiện dạy nghề; cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, không được từ chối tuyển dụng những người lao động khuyết tật có đủ tiêu chuẩn…

2. Quy định về quyền được có việc làm việc của người lao động khuyết tật.

Việc làm cho người khuyết tật được cả Liên hợp quốc (UN) và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đặc biệt quan tâm. UN quy định: các quốc gia phải công nhận quyền được làm việc của người khuyết tật, bằng cách thực thi những bước phù hợp, bao gồm cả các biện pháp luật pháp.  ILO hướng dẫn thúc đẩy cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật không bao gồm việc ngăn cấm phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật. Ngày 22/10/2007, Việt Nam đã ký Công ước Liên Hợp Quốc về quyền của người khuyết tật.

Bộ luật Lao động của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2012 khẳng định: “Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm của lao động là người khuyết tật, có chính sách khuyến khích và ưu đãi người sử dụng lao động tạo việc làm và nhận lao động là người khuyết tật vào làm việc, theo quy định của Luật Người khuyết tật” (Khoản 1 Điều 176). Quyền làm việc của lao động khuyết tật là tiền đề tạo ra cơ hội và động lực cho người khuyết tật tìm kiếm việc làm, có cơ hội khẳng định bản thân, tự lập trong cuộc sống, tạo ra thu nhập để không phải dựa dẫm vào gia đình, người thân.

3. Quy định về cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh

Học nghề và việc làm cho người khuyết tật luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Bộ luật Lao động tại khoản 2 Điều 176 quy định: “Chính phủ quy định chính sách cho vay vốn ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm đối với người sử dụng lao động sử dụng lao động là người khuyết tật”. Đối với cơ sở dạy nghề, tổ chức dạy nghề cho người khuyết tật thì phải bảo đảm điều kiện dạy nghề cho người khuyết tật và được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật ; cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay vốn với lãi suất ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh; được ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất, kinh doanh theo tỷ lệ lao động là người khuyết tật, mức độ khuyết tật của người lao động và quy mô doanh. [3]. Đây là những quy định ưu đãi góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh có điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất, cải thiện môi trường làm việc để người khuyết tật tiếp cận với công việc.

4. Quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi

Trước đây, Bộ luật Lao động quy định về thời gian làm việc của người khuyết tật không quá 7 giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần với mục đích tạo điều kiện cho người khuyết tật làm việc trong giới hạn phù hợp với khả năng và sức khoẻ của mình, giúp họ phục hồi sức khoẻ một cách nhanh chóng, có khả năng làm việc lâu dài và đạt năng suất. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, quy định đã thể hiện sự bất cập, tạo ra sự phân biệt giữa lao động khuyết tật và lao động không khuyết tật. Người sử dụng lao động dựa vào quy định này để từ chối nhận NKT vào làm việc vì họ không đáp ứng được thời gian làm việc như các lao động khác. Tuy nhiên, NKT lại khẳng định, họ có thể làm tốt công việc như những người lao động không khuyết tật. Chính vì vây, Bộ luật Lao động  sửa đổi, bổ sung năm 2012 không quy định về thời giờ làm việc của người khuyết tật như trước để góp phần tạo ra môi trường làm việc công bằng giữa NKT và người không khuyết tật.

5. Quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với người khuyết tật

Điều 177 Bộ luật lao động 2012 quy định, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm trong việc bảo đảm về điều kiện lao động, vệ sinh lao động phù hợp với người khuyết tật và thường xuyên chăm sóc sức khỏe cho họ. Pháp luật nhấn mạnh đến việc đảm bảo các điều kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động cho người tàn tật; cấm làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm đối với lao động khuyết tật bị suy giảm khả năng lao động từ 51% ; cấm sử dụng người lao động khuyết tật làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,  Bộ Y tế ban hành. Như vậy, người sử dụng lao động không được vì lợi ích trước mắt của mình để thỏa thuận làm thêm giờ, làm việc ban đêm, hoặc trường hợp chủ sử dụng lao động lợi dụng người lao động khuyết tật vào làm những công việc nặng nhọc độc hại cho sức khỏe của họ.

6. Quy định về quỹ việc làm cho người khuyết tật

Với mục đích giúp đỡ người khuyết tật học nghề, tạo việc làm, hỗ trợ cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật; hỗ trợ các doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế nhân người khuyết tật vào học nghề và làm việc đạt tỷ lệ cao thì quy định về thành lập và sử dụng quỹ việc làm cho NKT là một vấn đề quan trọng và cần thiết. Luật Người khuyết tật năm 2010, tại Điều 10 quy định về quỹ trợ giúp người khuyết tật. Theo đó, quỹ này là quỹ xã hội từ thiện nhằm huy động nguồn lực trợ giúp NKT và quỹ này được hình thành từ các nguồn như: đóng góp tự nguyện, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; hỗ trợ từ ngân sách nhà nước; các khoản thu hợp pháp khác. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện nguồn quỹ này vẫn đang còn nhiều bất cập.

Như vậy, giải quyết việc làm cho người khuyết tật không chỉ trông chờ vào tinh thần nhân đạo của các tổ chức, doanh nghiệp hoặc theo chương trình hợp tác dự án với các tổ chức nhân đạo ngước ngoài. Về phía người khuyết tật cũng phải tự trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng chuyên môn, sẵn sàng đảm đương được công việc của nhà tuyển dụng để khẳng định được mình là những người “tàn mà không phế”. Đã đến lúc, cần phải có hành lang pháp lý chặt chẽ hơn về trách nhiệm của người quản lý. Có như vậy, người khuyết tật mới được hưởng đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý như những người lao động bình thường khác, góp phần đưa ước nguyện “hãy đưa chúng tôi hòa nhập với cộng đồng” của người khuyết tật trở thành hiện thực.

 Quy định về dạy nghề và việc làm cho người khuyết tật

(trích Chương IV Luật Người khuyết tật, số 51/2010/QH12)

Điều 32. Dạy nghề đối với người khuyết tật

1. Nhà nước bảo đảm để người khuyết tật được tư vấn học nghề miễn phí, lựa chọn và học nghề theo khả năng, năng lực bình đẳng như những người khác.

2. Cơ sở dạy nghề có trách nhiệm cấp văn bằng, chứng chỉ, công nhận nghề đào tạo khi người khuyết tật học hết chương trình đào tạo và đủ điều kiện theo quy định của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề.

3. Cơ sở dạy nghề tổ chức dạy nghề cho người khuyết tật phải bảo đảm điều kiện dạy nghề cho người khuyết tật và được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.

4. Người khuyết tật học nghề, giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.

Điều 33. Việc làm đối với người khuyết tật

1. Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật phục hồi chức năng lao động, được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với sức khỏe và đặc điểm của người khuyết tật.

2. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của người khuyết tật.

3. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật tùy theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật.

4. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về lao động đối với lao động là người khuyết tật.

5. Tổ chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn học nghề, tư vấn và giới thiệu việc làm cho người khuyết tật.

6. Người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tật được vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất kinh doanh, được hướng dẫn về sản xuất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm theo quy định của Chính phủ.

Các chính sách hỗ trợ về việc làm cho người khuyết tật và các cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật:

(trích Chương IV Luật Người khuyết tật, số 51/2010/QH12)

Điều 34. Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật

 

Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay vốn với lãi suất ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh; được ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất, kinh doanh theo tỷ lệ lao động là người khuyết tật, mức độ khuyết tật của người lao động và quy mô doanh nghiệp.

Điều 35. Chính sách nhận người khuyết tật vào làm việc

1. Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhận người khuyết tật vào làm việc. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định tại Điều 34 của Luật này.

2. Chính phủ quy định chi tiết chính sách khuyến khích cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhận người khuyết tật vào làm việc quy định tại khoản 1 Điều này.

                                                                                       Lê Văn Trắc

Tiếp nhận ý kiến
Hình ảnh hoạt động
Video